Ăn dặm kiểu Nhật luôn là một từ khóa khá hot khi các mẹ muốn tìm kiếm thông tin ăn dặm cho con thông qua internet. Không chỉ được biết đến như một phương pháp cho trẻ ăn dặm có thực khoa học, hợp lý, ăn dặm kiểu Nhật còn giúp bé ăn ngon miệng, tránh tình trạng chán ăn. Tuy nhiên, đây không phải là một phương pháp có thể thực hiện được trong một vài ngày mà đòi hỏi một quá trình.
Để thành công với phương pháp này, mẹ cần lưu ý một số điểm chính sau đây:
1. Thực hiện từng bước và kiên trì
Thông thường, việc ăn dặm của trẻ được bắt đầu từ khoảng 5 – 6 tháng tuổi và kết thúc khi bé 15 tháng tuổi để chuyển sang giai đoạn ăn cơm thay cho các món cháo, súp trong thời kỳ ăn dặm. Mặc dù, ăn dặm chỉ diễn ra trong vòng khoảng 10 – 12 tháng nhưng mẹ cần thực hiện từng bước từ việc tập cho bé ăn loãng đến đặc dần và từ mịn đến thô dần tùy theo đặc điểm mỗi bé mà chọn thời gian thay đổi phù hợp. Ngoài ra, các mẹ cũng cần chú ý không duy trì một giai đoạn để giúp trẻ duy trì sở thích ăn uống, ăn ngon miệng và hấp thu chất dinh dưỡng được tốt hơn.
Bên cạnh đó, khi mới cho con tập ăn các mẹ Nhật thường không nôn nóng trong việc bắt con dùng các dụng cụ ăn bài bản mà dạy con từng kỹ năng. Nói một cách cụ thể hơn, vào giai đoạn đầu tập ăn mẹ Nhật thường dạy con kỹ năng bốc thức ăn bằng tay rồi mới đến ghim thức nĩa và cuối cùng là dùng muỗng để xúc thức ăn.
Khẩu phần ăn dặm dành cho các bé cũng có sự thay đổi qua thời gian, ban đầu bé sẽ được ăn riêng từng món như cháo trắng, thịt gà, tôm, trứng… để bé biết cách phân biệt mùi vị của từng loại món ăn và thể hiện sở thích của bản thân. Dần dần, mẹ có thể xay và nấu chung thành các món cháo, súp theo đúng sở thích của bé. Chế độ ăn dặm theo kiểu Nhật đòi hỏi khá nhiều công sức và sự kiên nhẫn của mẹ nhưng chắc chắn sẽ khiến bé ăn ngon miệng và kích thích vị giác hơn.
2. Hạn chế dùng gia vị
Ngoài ra, khi mới cho ăn dặm, người Nhật thường hạn chế dùng các gia vị có nhiều dầu, muối hay đường hoặc nêm muối để bé có thể biết được vị tự nhiên của thực phẩm, từ đó đưa ra lựa chọn (thích hoặc không thích, ăn ít hoặc ăn nhiều). Bữa ăn dặm nên được tách ra riêng biệt so với cữ sữa của bé. Một phần là để cho bé nhận thức được đó là ăn dặm, phần khác quan trọng hơn là để phòng ngừa khả năng rối loạn tiêu hóa có thể xảy ra nếu kết hợp thực phẩm nào đó với sữa. Thời gian cho ăn thường được khuyên là 9 – 10h sáng, đây là thời điểm bé tỉnh táo và dễ dàng hợp tác. Tuy nhiên giờ ăn có thể thay đổi để phù hợp với lịch sinh hoạt của từng gia đình.
3. Ăn dặm theo 4 giai đoạn
– Giai đoạn làm quen với muỗng
Đây là giai đoạn bé bắt đầu tập ăn, vì thế, ở tuần đầu tiên chỉ cho bé ăn cháo trắng nghiền nhuyễn, rây qua lưới (không nêm gia vị; nấu theo tỉ lệ 1:10 (5 ml gạo + 50 ml nước), giống như cháo loãng để bé dễ nuốt thức ăn không cần nhai. Từ tuần thứ hai trở đi, có thể cho bé ăn thêm một chút rau, củ, quả. Rau bina (còn gọi là rau chân vịt hay cải bó xôi) là loại rau xanh giàu vitamin và dễ tiêu hóa nên người Nhật thường dùng để chế biến món ăn dặm cho bé (chỉ dùng phần lá, bỏ cuống). Do giai đoạn này chủ yếu là tập cho bé nuốt thức ăn dạng bột, làm quen với các vị thức ăn khác ngoài sữa và làm quen với việc ăn bằng muỗng. Vì vậy, ban đầu nên cho bé ăn từ ít đến nhiều: 2 ngày đầu tiên cho bé ăn 1 muỗng (15 ml), 3 ngày tiếp theo 2 muỗng (30 ml), 3 ngày tiếp theo 3 muỗng (45 ml) , 7 ngày tiếp theo 4 muỗng (60 ml) … Đối với những bé nhạy cảm, nếu bé không ăn, không nên ép bằng mọi cách mà hãy ngừng khoảng 2~3 ngày. Sau đó, tiếp tục chế biến thức ăn mịn hơn và thử cho bé ăn lại.
– Giai đoạn tập nhai
Đây là giai đoạn bé biết nhai trệu trạo, bé có thể đẩy mạnh lưỡi lên hàm trên để làm tan thức ăn, nên những món hấp có độ mềm như cháo không cần nghiền nhuyễn bé cũng có thể ăn được. Giai đoạn này nên tăng chủng loại thực phẩm để bé làm quen với nhiều vị thức ăn khác nhau. Thức ăn của bé chỉ cần nghiền nhỏ (không cần nghiền thành bột) và cho thêm bột gạo tạo độ trơn để bé dễ nuốt. Có thể cho bé ăn thịt nạc hoặc các loại cá có thịt màu đỏ. Nên thêm từng ít một để đa dạng thực đơn cho bé. Những loại rau mềm như rau bina chỉ cần nấu mềm đi một nửa là vừa. Có thể cho bé ăn mì sợi nấu mềm như cháo 1:7, cắt nhỏ sao cho bé có thể bốc ăn bằng tay. Bé rất thích nuốt mì hoặc thức ăn dạng sợi dài 2~3 cm (nui, bánh canh, phở, bún). Giai đoạn này cho bé ăn cháo nguyên hạt tỉ lệ 1:7 (10 ml gạo + 70 ml nước).
– Giai đoạn tập bốc
Ở giai đoạn này, cho bé ăn mỗi ngày 3 bữa chính. Bé đã có thể nhai tốt thức ăn bằng lợi. Vì vậy, thức ăn được nấu mềm sao cho bé có thể nhai bằng lợi (độ mềm như chuối là vừa). Có thể tập cho bé ăn những món ăn cứng hơn một chút. Thức ăn của bé được cắt to khoảng 0,5 cm, dài khoảng 2 ~ 3 cm để bé có thể tự bốc ăn hoặc cầm nĩa ghim thức ăn cho vào miệng. Bé có thể ăn được hầu hết các loại rau. Có thể cho bé ăn cả phần cuống rau bina (cắt nhỏ). Bé có thể ăn cả lòng đỏ và lòng trắng trứng. Tuy nhiên, nên cho bé ăn trứng chín hoàn toàn. Bé có thể ăn hầu hết các món cá nấu chín. Nên cho bé ăn thêm gan gà, các loại thịt có màu đỏ, đậu quả, đậu hũ để bổ sung chất sắt. Giai đoạn này cho bé ăn cháo nguyên hạt tỉ lệ 1:5 (20 ml gạo + 100 ml nước).
– Giai đoạn tập ăn cơm
Bé ăn mỗi ngày 3 bữa chính cùng thời gian với bữa ăn của người lớn. Giai đoạn này bé có thể ăn được thức ăn to và cứng hơn giai đoạn trước. Có thể cho bé ăn cơm nát rồi đến cơm. Ngoài ra, tập cho bé tự ăn bằng muỗng và nĩa. Mục tiêu của giai đoạn này là cho bé ăn thức ăn giàu dinh dưỡng để hướng đến việc ngừng cho bé uống sữa bột. Lúc này, bé có thể ăn gần như người lớn, vì vậy nên cho bé ăn cân bằng dinh dưỡng bằng nhiều loại thực phẩm. Tuy nhiên, thức ăn của bé vẫn được nêm nhạt. Lượng muối nêm cho bé bằng 1/4 muỗng nhỏ (1 muỗng nhỏ bằng 2,5 g). Để tập cho bé biết tự ăn, nên chế biến các món mà bé có thể tự bốc ăn như các món làm từ bánh mì lát hoặc cơm nắm. Nên tạo thức ăn có hình dạng và màu sắc bắt mắt để bé thích ăn hơn. Để tập cho bé biết tự ăn, nên chế biến các món mà bé có thể tự bốc ăn như các món làm từ bánh mì lát hoặc cơm nắm. Nên tạo thức ăn có hình dạng và màu sắc bắt mắt để bé thích ăn hơn.
Hương An